Page 32 - Tạp chí Năng lượng Mới số 207
P. 32

OceanMight của Malaysia,
                 một công ty con của KKB
              Engine-ering, đã được đưa vào
               liên minh kỹ thuật, mua sắm,
              xây dựng, lắp đặt và vận hành
               (EPCIC) cho dự án thu giữ và
               lưu trữ carbon Kasawari của
              Petronas ngoài khơi Malaysia
                                   Một yếu tố quan trọng không kém là cần có   đang được quảng bá như một giải pháp khí
                                   mức định giá carbon hợp lý và minh bạch   hậu ở Đông Nam Á nhằm hỗ trợ kéo dài vòng
                                   trong khu vực.                         đời các dự án dầu khí.
                                      Theo tính toán của MRI, nếu tích hợp CCS   Tại  Malaysia,  mỏ  khí  Kasawari  từng  bị
                                   vào các nhà máy điện than hiện có như Jawa-  “bỏ  quên”  vì  hàm  lượng  CO   cao,  nay  được
                                                                                                2
                                   7 (Indonesia) hoặc Vân Phong (Việt Nam), có   “hồi sinh” nhờ CCS, cho phép thương mại hóa
                                   thể thu giữ tới 95% lượng khí CO , với chi phí   nguồn khí tưởng chừng không thể khai thác.
                                                             2
                                   khoảng 70-80 USD/tấn, bao gồm cả thu giữ,   Tại Thái Lan, PTTEP cũng đang triển khai dự
                                   vận chuyển và lưu trữ.                 án CCS không chỉ để giảm phát thải, mà còn
                                      Nhưng giới chuyên gia cảnh báo con số   nhằm gia tăng sản lượng. Tuy nhiên, hiệu quả
                                   này  còn  quá  lạc  quan.  Ông  Grant  Hauber,   môi trường của CCS rất hạn chế. Ví dụ, mỏ
                                   cố vấn tài chính năng lượng tại Viện Kinh tế   Kasawari dù áp dụng CCS cũng chỉ giảm được
            Để hiện thực hóa       Năng lượng và Phân tích Tài chính (IEEFA),   14,6% lượng phát thải, tương đương chưa tới
             tham vọng CCS,        dẫn  chứng:  Dự  án  CCS  Gorgon  ở  Australia   1% tổng lượng khí thải của Petronas. Như vậy,
            rào cản lớn nhất       - một trong những dự án lớn nhất thế giới -   CCS hiện mới chỉ là bước khởi đầu trong lộ
                                                                          trình xanh hóa ngành năng lượng, giúp các
                                   ban đầu dự kiến chi phí chỉ 45 USD/tấn CO ,
             là Đông Nam Á         nhưng  thực  tế  đội  giá  lên  tới  129  USD/tấn.   tập đoàn duy trì hoạt động trong bối cảnh thế
                                                                     2
             cần một nguồn         Đó là chưa kể Gorgon còn không phải vận   giới chuyển dịch sang năng lượng sạch.
            đầu tư khổng lồ.       chuyển CO  xa như các dự án ở châu Á.    Tại  Indonesia,  một  xu  hướng  tương  tự
                                            2
              Theo ước tính           Không chỉ tốn kém, hiệu quả cũng là một   cũng  đang  được  ghi  nhận  khi  một  số  nhà
              của Mạng lưới        vấn đề lớn. Theo thống kê của IEEFA, trong   máy nhiệt điện than, chẳng hạn như Jawa-7,
            CCUS châu Á, khu       số 16 dự án CCS đang vận hành ở châu Âu,   bắt đầu lên kế hoạch tích hợp công nghệ CCS.
                                                                          Theo bà Sisilia Dewi, đại diện tổ chức 350.org,
                                   Mỹ,  Australia  và  Algeria,  không  dự  án  nào
             vực này sẽ cần        đạt được mức thu giữ 80% CO , trong khi đây   việc áp dụng CCS có thể làm sao nhãng khỏi
                                                          2
            khoảng 40 tỉ USD       mới chỉ là mức thấp hơn cả mục tiêu ngành   mục tiêu khí hậu cốt lõi.
             mỗi năm từ nay        (95%). Phần lớn các dự án chỉ thu được 20-  Dù nhiều chiến lược và hội nghị đã được
             đến năm 2065          60% và đều phải phụ thuộc vào trợ cấp nhà   tổ chức, tính đến nay CCS vẫn chưa chứng
             để xây dựng đủ        nước hoặc tiền thuế để duy trì hoạt động. “Ở   minh được tính khả thi về mặt thương mại,
             hạ tầng, qua đó       châu  Á,  CCS  rất  khó  triển  khai  nếu  không   kể  từ  khi  Mạng  lưới  CCUS  châu  Á  ra  đời
                                                                          năm  2021.  Chuyên  gia  Grant  Hauber  cho
                                   tháo  gỡ  được  những  vướng  mắc  trong  bài
              đạt được mục         toán tài chính hiện nay”, ông Hauber nhận   rằng, từ nay đến năm 2030 khó có thể kỳ
              tiêu phát thải       xét. “Nguồn vốn sẽ đến từ đâu? Ai sẽ là người   vọng  vào  đột  phá  lớn  với  công  nghệ  CCS,
              ròng bằng 0.         chi trả? Dòng tiền có ổn định không? Có đủ   do đây là một chuỗi quy trình phức tạp và
                                   để trang trải chi phí đầu tư và vận hành hay   nhiều rủi ro - từ thu giữ, vận chuyển đến
                                   không?  -  Tất  cả  những  câu  hỏi  đó  đến  giờ   chôn CO  dưới lòng đất. Mỗi công đoạn đều
                                                                                2
                                   vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng, đặc biệt là   tiềm ẩn rủi ro và khi ghép lại với nhau thì
                                   với chuỗi giá trị CO  ở khu vực Đông Á”, ông   mức độ rủi ro lại càng cao. Ông nhấn mạnh,
                                                  2
                                   nói thêm.                              nếu không bắt đầu xây dựng hạ tầng ngay
                                      Trong khi đó, theo hai chuyên gia Grant   từ bây giờ, thì rất khó để thương mại hóa
                                   Hauber và Meenakshi Raman, công nghệ CCS   CCS trong vài năm tới.

          32   NĂNG LƯỢNG MỚI  Số 207 (26-8-2025)
   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37